Ai sẽ là vua ở cuộc chiếc xe cỡ nhỏ
Những chiếc Hatchback cỡ nhỏ ngày nay không chỉ xóa đi suy nghĩ về xe giá rẻ và sự bất tiện mà nó đã cho thấy xe cỡ nhỏ dần đẹp hơn, tiện dụng hơn và chất lượng tốt hơn.
Vài năm trước Honda Fit trở thành hiện tượng của dòng xe Hatchback cỡ nhỏ, nó cho thấy người tiêu dùng và các nhà sản xuất xe hơi không cần thiết phải có nhiều những chiếc xe hình hộp.
Doanh số bán Fit tốt khiến các hãng xe còn lại bắt đầu phải chạy đua ở phân khúc này. Bằng chứng là trong năm 2010, Toyota, Kia, Hyundai, Chevrolet và Mazda đều đã cho ra đời những sản phẩm mới để theo kịp ngôi đầu của Fit. Vậy đến năm 2012 thì sao? Ai xe lên ngôi ở phân khúc này?
Để tìm cho câu trả lời này, nhóm thử xe của Motortrend đã mời đến các mẫu xe Toyota Yaris, Kia Rio, Suzuki SX4, Hyundai Accent, Chevrolet Sonic và Mazda Mazda2. Tuy nhiên, Ford Fiesta đã không có mặt trong cuộc thi này. Và để công bằng, tất cả các xe đều được lựa chọn với phiên bản số tay.
Sau đây là bảng xếp hàng của 7 loại xe :
Vị trí thứ 7:Kia Rio
Không thể phủ nhận rằng Kia Rio mang lại ấn tượng ban đầu hết sức tích cực. Khá nhiều người tỏ ra thích kiểu dáng bên ngoài của chiếc xe này. Tiếc rằng khi ngồi sau vô-lăng trong một khoảng thời gian, Kia Rio lại cho thấy nó còn có nhiều điều cần phải nhắc tới.
Mặc dù cả Kia Rio và Hyundai Accent đều cùng sử dụng chung động cơ phun xăng trực tiếp 1.6L công suất 103 kW (138 HP) và hộp số tay 6 cấp nhưng “Nó tròng trành và ồn ào ở mọi tốc độ, đặc biệt là chạy trên đường cao tốc.
Phần lớn âm thanh động cơ và khả năng loại bỏ tiếng ồn của Kia Rio không tốt như Accent” – Jason Davis, biên tập viên của Motortrend đã nhận định như vậy khi lái thử chiếc xe này.
Hệ thống kiểm soát lực kéo của Kia Rio trở nên yếu thế khi cần có một sự khởi đầu nhanh chóng. Nhóm thử xe đã phát hiện ra sự thiếu hụt này sau khi cố vượt qua một chiếc xe trên đường. Khả năng tiết kiệm của Kia Rio cũng chỉ ở mức trung bình với 7,64L/100km, đứng thứ 4 sau mẫu Honda Fit sử dụng hộp số tay 5 cấp.
Ưu điểm lớn nhất mà chiếc xe này chính là mức giá. Với 14.350 USD, Kia Rio là chiếc xe rẻ nhất trong 7 mẫu được đem thử nghiệm lần này. Có điều, mô hình cơ bản của Rio lại thiếu hệ thống kiểm soát hành trình, khóa cửa điện và một số tính năng phổ biến của một mẫu xe ở cấp độ cơ bản.
Dẫu vậy, Kia Rio vẫn được đánh giá là chiếc xe sở hữu thiết kế nội thất đẹp ở mức giá rẻ và bạn hoàn toàn có quyền tự hào để nói “tôi có một chiếc xe mới” khi nhắc tới Rio.
Vị trí thứ 6: Suzuki SX4
Suzuki SX4 xuất hiện tại châu Âu vào năm 2005 và đến Mỹ năm 2006. Mặc dù chiếc xe này đã được làm mới lại vào năm 2010 cùng thay đổi ở hộp số mới nhằm giúp xe tiết kiệm hơn nhưng từng đó vẫn không thể giúp cho nó lột bỏ đi cái cảm giác quen thuộc có phần nhàm chán của SX4 ngày nào.
Với dung tích 2.0L công suất 112 kW (150 HP) cùng mô-men xoắn 190 Nm, động cơ của SX4 được đánh giá là mạnh mẽ nhất. Thật không may, trọng lượng thân xe cũng nặng nhất 1.034 kg khiến khả năng tăng tốc của chiếc xe chỉ nằm ở giữa bảng xếp hạng, trong khi mức tiêu thụ nhiên liệu lại chỉ đứng thứ 2 từ dưới lên trước Mazda2 với con số 8,46L/100km.
Nhóm thử xe cũng phàn nàn về khả năng kiểm soát của SX4 hệ thống treo mềm, tiếng gió luôn luẩn quẩn xung quanh cột trụ A, trong khi bộ ly hợp tỏ ra mơ hồ và âm thanh động cơ không mấy êm tai.
Tuy nhiên, một số người trong nhóm thử xe lại cảm thấy dù chiếc Suzuki tạo cho người dùng về một cảm giác giá rẻ nhưng nó vẫn có điều gì đó để mang đến một chất lượng tốt, chắc chắn hơn so với các đối thủ khác.
Nate Martinez – biên tập viên trang điện tử Motortrend còn nhận xét hùng hồn về Suzuki “SX4 có thể đã bị các đối thủ khác vượt mặt nhờ sự thoải mái hơn, hiệu quả hơn và thay thế ít tốn kém hơn nhưng sẽ thiếu sót khi SX4 không có trong danh sách lựa chọn mẫu xe Hatchback cỡ nhỏ của bạn”.
Vị trí thứ 5: Mazda Mazda2
Không chỉ có chiều dài cơ sở ngắn nhất, trọng lượng nhẹ nhất 846 kg, Mazda2 còn sở hữu động cơ I-4 1.5L có công suất thấp nhất 75 kW (100 HP) và không gian chở đồ nhỏ nhất 377 lít. Vậy sự khác biệt giữa Mazda2 với các mẫu xe còn lại?
Đó chính là khả năng lái của chiếc xe này bởi hầu hết các thành viên trong nhóm thử xe đều tỏ ra thích thú khi cầm lái Mazda2. Song Mazda2 có mức tiêu thụ nhiên liệu hơi thất vọng khi bị xếp ở vị trí cuối bảng xếp hạng với 8,71L/100km. Vậy điều gì khiến Mazda2 có mức tiêu thụ nhiên liệu thấp?
Động cơ công suất khiêm tốn là nguyên nhân chính cho điều này, cho dù mô-men xoắn đạt ở mức cao nhưng bạn thực sự cảm thấy nó thiếu đi sức mạnh. Ngoài ra, điều mà bạn cũng có thể cảm nhận một cách rõ ràng khi cầm lái chính là những đoạn đường xấu hay những chỗ lồi lõm của bề mặt đường do chiều dài cơ sở của Mazda2 ngắn kết hợp với các bộ phận giảm chấn được thiết lập tương đối cứng.
Không gian nội thất của Mazda2 bị đánh giá là tương đối chật chội, đặc biệt khi ngồi ở ghế lái. Nhưng nhóm thử xe lại rất hài lòng với các cấp số ngắn của Mazda2. Khả năng chuyển số chính xác, vô-lăng cảm nhận rõ nét đã phần nào xua tan không gian bí bách để bạn cảm thấy thú vị hơn khi chạy trên đường.
Rất tiếc, điều này không phải là điểm đánh giá của nhóm thử xe. Thứ mà nhóm thử xe tập trung chính là tính thực tế, độ thoái mái và khả năng tiết kiệm nhiên liệu. Đây mới là điều mà đại đa số người mua xe muốn tìm kiếm ở một chiếc Hatchback cỡ nhỏ.
Thật may, họ vẫn đánh giá Mazda2 là một chiếc xe đô thị tuyệt vời nếu bạn mua nó phục vụ cho việc đi lại trong thanh phố hay sống ở những khu vực có bãi đỗ xe hạn chế. Đơn giản, thiết kế của Mazda2 đã được tối ưu hoá cho thị trường châu Âu.
Vị trí thứ 4: Honda Fit
Không thể phủ nhận Honda Fit là một chuẩn mực và là ông lớn trong cuộc ganh đua ở phân khúc Hatchback cỡ nhỏ. Nhóm thử xe của Motortrend đã từng đánh giá rất cao chiếc xe này vào năm 2010 khi mang thử nghiệm với Toyota Yaris thế hệ cũ, Ford Fiesta và Nissan Versa.
Nhưng giờ đây, vị thế đó đã không còn giữ được. Lý do là đến phiên bản 2012, Honda vẫn chưa cung cấp cho Fit hộp số 6 cấp mà quyết định gắn bó với hộp số 5 cấp. Mặc dù vậy, mức tiêu thụ nhiên liệu của nó vẫn đạt 7,59L/100km, xếp thứ 3 sau Yaris và Accent.
Nhưng điều đó không thể mang tới sự thoải mái cho Fit trên một hành trình dài bởi những tiếng ồn của đường và động cơ. Tuy nhiên, tương tự như Mazda2, Fit được thiết kế hướng tới tính thể thao nhiều hơn, cảm giác điều khiển và khả năng xử lý đem lại sự thích thú cho người lái.
Mỗi tội là hệ thống treo cứng (đứng thứ 2 sau Mazda2) nên không được nhóm thử xe đánh giá cao ở tiêu chí thoải mái. Điểm khiến tất cả mọi người hài lòng nằm ở không gian bên trong của Honda Fit. Nó rất ấn tượng khi khoang chứa đồ cho phép nhồi nhét rất nhiều thứ ở trong nó với dung tích 1.623 lít khi gập hàng ghế sau xuống.
Không chỉ vậy, chúng ta có thể tìm thấy vị trí ngồi thoải mái với tầm quan sát rộng, thiết kế khu vực ca-bin hiện đại. Nhưng từng đó vẫn không đủ bù đắp cho những thiếu xót kể trên.
Vị trí thứ 3: Toyota Yaris
Là mẫu xe xuất hiện muộn nhất trong 7 đối thủ, Toyota Yaris đã được thiết kế mới để định vị lại độ tuổi khách hàng từ 20-30 tuổi và không có gì ngạc nhiên khi giới trẻ tỏ ra ưa thích phong cách của Yaris thế hệ mới.
Với động cơ 1.5L công suất 79 kW (106 HP) và mô-men xoắn 140 Nm, khả năng tăng tốc không phải là những gì bạn muốn nhưng các cấp số của Yaris vẫn đáp ứng được hầu hết các yêu cầu của người dùng và cung cấp một gia tốc chấp nhận được.
Hơn nữa, hộp số tay 5 cấp đủ để cho Yaris thoải mái hơn so với Fit. Nội thất của Yaris là một mớ hỗn độn, điểm nhấn ở khu vực này có lẽ là vật liệu nhựa mềm, kết nối Bluetooth, vô-lăng bọc da.
Không gian dành cho hành khách cũng được ưu tiên để tạo sự thoải mái với thiết kế ghế sau lớn, nếu không nói là lớn nhất trong các mẫu xe được giới thiệu lần này. Điều gì đã giúp cho Yaris nằm trong Top 3? Đó chính là mức tiêu thụ nhiên liệu.
Toyota Yaris đạt con số 7,28L/100km, chỉ đứng thứ 2 sau Hyundai Accent. Trên đường cao tốc, Yaris cũng chỉ mất có 5,88L/100km. Và cuối cùng, màu sắc của chiếc xe này là thứ tạo nên nhiều cảm xúc cho nhóm thử xe.
Vị trí thứ 2: Chevrolet Sonic
Sau thất bại của mẫu Aveo, sự xuất hiện của Sonic chính là thứ mà GM Chevrolet muốn củng cố ở phân khúc xe nhỏ tiết kiệm. Với những gì Sonic thể hiện trong cuộc tỉ thí để dành vị trí thứ 2 đã chứng minh cho những nổ lực cải thiện hình ảnh của GM Chevrolet trong con mắt người tiêu dùng.
Có lẽ đặc điểm ấn tượng nhất của Sonic là sự tĩnh lặng và thoải mái khi chạy ở tốc độ cao. Hộp số tay 6 cấp kết hợp với khả năng cách âm hiệu quả cùng hệ thống treo đàn hồi tốt giúp cho nó trở nên dễ chịu và tạo cảm giác cao cấp hơn so với số tiền mà bạn phải bỏ ra.
Đối với Chevrolet, họ xứng đáng nhận được những lời khen ngợi bởi thực trạng hiện nay, các nhà sản xuất vẫn đánh giá thấp tầm quan trọng của chất lượng đối với những chiếc xe ở phân khúc này.
Điểm ấn tượng khác ở không gian nội thất còn là cách thiết kế ca-bin lấy cảm hứng từ xe máy, mặc dù để xem xét với phong cách ngoại thất, nó dường như hoàn toàn khác biệt. Không gian chứa đồ cũng chỉ đứng sau Honda Fit với dung tích 538 lít.
Về động cơ, Chevrolet Sonic có sức mạnh 103 kW (138 HP) với mô-men xoắn 201 Nm, lớn hơn bất kỳ chiếc xe nào trong cuộc thử nghiệm nhưng nó lại là một trong 3 mẫu xe có khả năng tăng tốc chậm nhất và chỉ đứng thứ 5 trong hạng mục tiêu thụ nhiên liệu với 7,69L/100km.
Ngoài ra, để ghế ngồi có chức năng sấy và kết nối Bluetooth, người dùng sẽ phải bỏ thêm 1.400 USD. Dẫu sao Chevrolet Sonic vẫn là một chiếc xe có tổng thể vững chắc, nó sinh ra không phải để đem lại sự thú vị cho người lái mà tất cả những gì Sonic có chỉ nhằm giúp người dùng cảm thấy sự tinh tế và chất lượng mà thôi.
Vị trí đầu bảng: Hyundai Accent
Xe Hyundai Accent là chiếc xe mà nhóm thử xe ứng ý nhất và nó rất xứng đáng khi được xếp ở ngôi đầu của bảng xếp hạng. Mức tiêu thụ nhiên liệu tốt nhất 7,26L/100km, khả năng tăng tốc nhanh nhất, quãng đường phanh ngắn nhất, giá bán gần như thấp nhất và thời gian bảo hành dài nhất nhưng từng đó chưa phải là tất cả những gì mà Accent mang lại.
Bên trong, Accent còn cung cấp hàng loạt các tính năng, tiện ích hiện đại như Bluetooth, kết nối iPod và radio vệ tinh. Bên cạnh đó, động cơ phun xăng trực tiếp 103 kW (138 HP) giống như trên Kia Rio nhưng nó có cảm giác mạnh mẽ hơn, mượt mà hơn và ít ồn ào, khả năng cách âm được cải thiện đáng kể. Hộp số tay 6 cấp mang lại sự thoải mái ở tốc độ cao mặc dù nó không phải là chiếc xe mang tới sự yên tĩnh giống như Sonic.
Trên thực tế, cầm lái Accent, người dùng sẽ cảm thấy như đang được lái một chiếc xe Compact hơn là một chiếc Subcompact. Điều này được lý giải bằng chiều dài cơ sở của Accent đã được nới rộng ngang với tiêu chuẩn của dòng compact là 2.570 mm.
Cộng với các điều chỉnh ở hệ thống treo khiến Accent trở nên trưởng thành hơn so với các mẫu xe đồng hạng. Nội ngoại thất của Accent được đánh giá cao nhờ ứng dụng ngôn ngữ thiết kế điêu khắc lỏng dù các chi tiết bị hạn chế hơn so với Sonata.
Nhược điểm của Accent nằm ở hệ thống lái chưa chắc chắn, phản ứng thiếu chính xác cùng hệ thống treo không mấy hoàn hảo khi chạy trên một số bề mặt đường nhất định. Đây dường như là điểm rất phổ biến triển các mô hình của Hyundai và Kia.
Tuy vây, chiếc xe vẫn rất hợp lý và hấp dẫn nhóm thử xe. Theo Lieberman, một người trong nhóm nhận xét “Theo nhiều cách, Accent là chiếc xe hoàn thiện nhất vào thời điểm này”.
- Đánh giá Hyundai Tucson (Ngày 07/05/2013)
- Hyundai Elantra 2014 đã xuất hiện (Ngày 11/05/2014)
- Hyundai Veloster coupe (Ngày 23/04/2013)
- HYUNDAI ELANTRA 2017 THẾ HỆ HOÀN TOÀN MỚI (Ngày 21/07/2016)
- Hyundai giành 3 giải thưởng thiết kế Red Dot (Ngày 11/04/2015)
- Khách Hàng Việt hài lòng với Hyundai (Ngày 07/11/2013)